Truy cập nội dung luôn

Chức năng nhiệm vụ của Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết

Căn cứ Quyết định số 727-QĐ/TU, ngày 05 tháng 02 năm 2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, biên chế và mối quan hệ công tác của Ban Nội chính Tỉnh uỷ; theo đó Ban Nội chính Tỉnh ủy có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, quyền hạn, tổ chức bộ máy, biên chế và mối quan hệ công tác như sau:

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng 

Quy định này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, biên chế và mối quan hệ công tác của Ban Nội chính Tỉnh ủy. 

Điều 2. Nguyên tắc tổ chức 

1. Bảo đảm tham mưu, giúp việc, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện của Tỉnh ủy; không chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc; một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. 

2. Bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. 

3. Đầu mối bên trong của Ban Nội chính Tỉnh ủy được thành lập trên một số cơ sở như sau: 

- Chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính Tỉnh ủy. 

- Tổng số biên chế được Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao. 

- Tối thiểu có 05 người mới thành lập một đầu mối. Trường hợp chưa bố trí đủ biên chế, ít nhất phải có 04 người mới được thành lập. 

Phòng có từ 10 người trở lên được bố trí không quá 03 phó trưởng phòng phòng có từ 05 đến dưới 10 người bố trí không quá 02 phó trưởng phòng; phòng chưa đủ 05 người, bố trí 01 phó trưởng phòng. 

Điều 3. Trách nhiệm, quyền hạn 

1. Chịu trách nhiệm trước Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy trong tham mưu, đề xuất với cấp ủy và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. 

2. Được yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Tỉnh ủy báo cáo, cung cấp hồ sơ, tài liệu phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính Tỉnh ủy. 

3. Được cử cán bộ dự các cuộc họp, hội nghị của cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc và các cơ quan liên quan khi bàn về nội dung thuộc lĩnh vực chuyên môn do Ban Nội chính Tỉnh ủy phụ trách. 

4. Thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm, thẩm quyền của chủ thể kiểm tra, giám sát theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng. 

5. Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Nội chính Trung ương. 

Điều 4. Về tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và cơ cấu cán bộ, công chức 

1. Về tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm 

Đối với tiêu chuẩn các chức danh cán bộ diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý thực hiện theo quy định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương thực hiện theo hướng dẫn, quy định của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, 

Việc xác định vị trí việc làm của cán bộ, công chức Ban Nội chính Tỉnh ủy do Ban Nội chính Tỉnh ủy xây dựng, Ban Tổ chức Tỉnh ủy thẩm định, trình Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xem xét theo quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ. 

2. Về cơ cấu cán bộ, công chức 

Bố trí hợp lý cơ cấu cán bộ, công chức phù hợp với tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm; bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ban Nội chính Tỉnh ủy; cơ cấu cán bộ, công chức làm công tác nghiên cứu, tham mưu chiếm đa số. 

Chương II 

CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, TỔ CHỨC BỘ MÁY, BIÊN CHẾ 

Điều 5. Chức năng 

1. Ban Nội chính Tỉnh ủy là cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc của Tỉnh ủy mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp. 

2. Là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác nội chính Đảng; cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh và Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh. 

Điều 6. Nhiệm vụ 

1. Nghiên cứu, đề xuất và thực hiện 

1.1. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chủ trương, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp. Cụ thể hoá chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp phù hợp với địa phương. 

1.2. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp, báo cáo Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy xem xét, quyết định. 

1.3. Chủ trì hoặc phối hợp nghiên cứu, đề xuất Ban Chỉ đạo, Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh chỉ đạo hoặc kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi, khắc phục những sở hở, bất cập về quy định, cơ chế, chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 

1.4. Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan đề xuất với Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho chủ trương về hoạt động và đánh giá công tác năm của các cơ quan nội chính ở địa phương, hội luật gia, đoàn luật sư... và một số cơ quan có liên quan trong lĩnh vực nội chính, tư pháp ở tỉnh. 

1.5. Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu, đề xuất với Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho chủ trương, định hướng xử lý một số vụ việc, vụ án theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các vấn đề đột xuất, nổi cộm, phức tạp liên quan đến an ninh, trật tự trên địa bàn. 

1.6. Tiếp nhận và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị gửi đến Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh; kiến nghị với Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xử lý những đơn, thư có nội dung quan trọng; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết một số đơn, thư được Thường trực Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh giao. Phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức tiếp công dân theo quy định. Chủ trì, phối hợp với Văn phòng Tỉnh ủy giúp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân. 

1.7. Thực hiện việc báo cáo định kỳ và đột xuất với Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ban Nội chính Trung ương theo quy định. 

1.8. Sơ kết, tổng kết về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp của Tỉnh ủy. 

2. Hướng dẫn, kiểm tra, giám sát 

2.1. Phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tham mưu, giúp Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát hằng năm về lĩnh vực công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp; xử lý đơn, thư và tiếp công dân. 

2.2. Tham mưu, phối hợp, giúp Ban Chỉ đạo, Thường trực Ban Chỉ đạo và thành viên Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh thực hiện nhiệm vụ kiêm tra, giám sát. 

2.3. Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy kiểm tra, giám sát các cơ quan nội chính địa phương, hội luật gia, đoàn luật sư thực hiện chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cải cách tư pháp. 

2.4. Chủ trì hoặc phối hợp hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Tỉnh ủy thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp. 

2.5. Việc phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Chỉ đạo, hướng dẫn một số vụ án, vụ việc được Ban Chỉ đạo, Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh phân công. 

2.6. Chủ trì hoặc phối hợp các cơ quan liên quan theo dõi, kiểm tra, giám sát việc xử lý một số vụ việc, vụ án có sự chỉ đạo xử lý của Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Tỉnh ủy. 

2.7. Trực tiếp kiểm tra, giám sát việc: Phát hiện, xử lý các vụ việc; tiếp nhận xử lý tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố; khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng, tiêu cực; trước hết là các vụ án, việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. 

2.8. Hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác nội chính đảng cho cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ làm công tác nội chính Đảng của các cấp ủy trong Đảng bộ tỉnh. 

3. Thẩm định, tham gia ý kiến 

3.1. Các đề án, văn bản về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp trước khi trình Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy. 

3.2. Tham gia ý kiến đối với các đề án, văn bản của các cơ quan, ban, ngành, địa phương, đơn vị, mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh về những nội dung liên quan đến lĩnh vực công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp trước khi trình Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy. 

4. Phối hợp 

4.1. Với Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tham mưu, giúp Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh ủy xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát hằng năm thuộc lĩnh vực nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp. 

4.2. Với Ban Tổ chức Tỉnh ủy trong công tác cán bộ theo quy định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; trong việc quản lý tổ chức bộ máy, biên chế và việc thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, người lao động của Ban Nội chính Tỉnh ủy. 

4.3. Tham gia ý kiến với các cơ quan có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với một số chức danh tư pháp theo quy định của pháp luật và theo phân cấp quản lý cán bộ. 

44. Với các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy, các cấp ủy, cơ quan liên quan xây dựng quy chế phối hợp thực hiện công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp trình Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành. 

4.5. Với Văn phòng Tỉnh ủy giúp Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tịnh ủy, Tỉnh ủy theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy chế làm việc của Tỉnh ủy. 

4.6. Với ban thường vụ cấp ủy cấp huyện trong công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp ở địa bàn cấp huyện. 

5. Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tỉnh và cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh.

6. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao. 

Điều 7. Tổ chức bộ máy 

1. Lãnh đạo Ban 

Lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy gồm: Trưởng ban và không quá 02 phó trưởng ban. 

2. Đơn vị trực thuộc 

- Văn phòng. 

- Phòng Theo dõi công tác nội chính và cải cách tư pháp. 

- Phòng Theo dõi công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 

Điều 8. Biên chế của Ban Nội chính Tỉnh ủy 

Biên chế của Ban Nội chính Tỉnh ủy do Ban Thường vụ Tỉnh ủy xem xét, quyết định trên cơ sở tổng biên chế được Trung ương giao; bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Ban Nội chính Tỉnh ủy; bám sát yêu cầu, cơ cấu cán bộ, công chức, tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm được phê duyệt; tăng cường phân công kiêm nhiệm; thực hiện nghiêm chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động theo các quy định, hướng dẫn của Trung ương, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. 

Chương III 

CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC, MỐI QUAN HỆ CÔNG TÁC, 

TỔ CHỨC THỰC HIỆN 

Điều 9. Chế độ làm việc 

Ban Nội chính Tỉnh ủy làm việc theo chế độ thủ trưởng. Trưởng Ban chịu trách nhiệm trước Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy về toàn bộ hoạt động của Ban. Các phó trưởng ban giúp việc Trưởng Ban, chịu trách nhiệm về các công việc được phân công. 

Điều 10. Mối quan hệ công tác 

1. Quan hệ với Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy và Ban Nội chính Trung ương 

1.1. Ban Nội chính Tỉnh ủy chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo về mọi mặt của Tỉnh ủy, trực tiếp, thường xuyên là Thưởng trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; thực hiện chế độ báo cáo, tham mưu đề xuất với Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy các vấn đề thuộc trách nhiệm, lĩnh vực được phân công, về chương trình công tác của Ban Nội chính Tỉnh ủy. 

1.2. Chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát về chuyên môn, nghiệp vụ và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo đối với Ban Nội chính Trung ương theo quy định. 

2. Quan hệ với đảng đoàn, ban cán sự đảng, các cơ quan, sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh 

Quan hệ giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với đảng đoàn, ban cán sự đảng, các cơ quan, sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh là quan hệ phối hợp. 

2.1. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, Ban Nội chính Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các cơ quan, sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh nghiên cứu, triển khai, tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định của Trung ương, của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy. 

2.2. Phối hợp hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận, quy chế, quy định theo chức năng, nhiệm vụ được giao. 

3. Quan hệ với Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh 

Quan hệ giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh là quan hệ phối hợp. 

3.1. Ban Nội chính Tỉnh ủy phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh để triển khai thực hiện nhiệm vụ tham mưu thuộc lĩnh vực của Ban Nội chính Tỉnh ủy có liên quan đến công tác quản lý nhà nước; Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh tạo điều kiện, hỗ trợ để cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao. 

3.2. Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh bàn về các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của Ban Nội chính Tỉnh ủy, đại diện lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy được mời dự, tham gia ý kiến. Những nội dung cần thiết, lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy làm việc trực tiếp với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh để phối hợp thực hiện nhiệm vụ của mỗi bên. 

4. Quan hệ với các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy và các cơ quan trong khối nội chính tỉnh 

4.1. Quan hệ giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy là quan hệ phối hợp, trao đổi, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác chuyên môn, tổ chức và cán bộ theo phân cấp. 

4.2. Quan hệ giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với các cơ quan trong khối nội chính tỉnh là quan hệ phối hợp:

4.2.1. Thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật về công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và cải cách tư pháp; bảo đảm đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm và thống nhất trên phạm vi toàn tỉnh.

4.2.2. Thường xuyên trao đổi để nắm thông tin về tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiến độ và kết quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương; tình hình hoạt động của các cơ quan nội chính tỉnh.

Điều 11. Tổ chức thực hiện

1. Quy định này có hiệu lực kể từ ngày ký, thay thế Quyết định số 485-QĐ/TU ngày 28/9/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ công tác của Ban Nội chính Tỉnh ủy; Kết luận số 61-KL/TU ngày 29/3/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc sắp xếp bộ máy bên trong của Ban Nội chính Tỉnh ủy.

2. Căn cứ Quy định này, Ban Nội chính Tỉnh ủy:

- Xây dựng quy chế làm việc, xác định nhiệm vụ của các phòng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan.

- Xác định vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức, báo cáo Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xem xét, quyết định.

3. Ban Nội chính Tỉnh ủy, các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các cơ quan, sở, ban, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh; các huyện ủy, thành ủy, thị ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy có trách nhiệm thực hiện Quy định này.

Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, phát sinh, báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy (qua Ban Tổ chức Tỉnh ủy) xem xét, bổ sung, sửa đổi./.

 

Chương trình công tác tháng 12/2020 của Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Ngày 20/11/2020, Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành chương trình công tác tháng 12/2020 (Chương trình số 02); theo đó tháng 12/2020, Ban Nội chính Tỉnh ủy tập trung tham mưu, thực hiện một số nhiệm vụ như sau: 1. Công tác tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy - Tham mưu xây dựng Kế hoạch lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng của Ban Thường vụ Tỉnh ủy năm 2021 trình Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy tháng 12/2020. - Tham mưu báo cáo kết quả rà soát

Ngày 20/11/2020, Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang ban hành chương trình công tác tháng 12/2020 (Chương trình số 02); theo đó tháng 12/2020, Ban Nội chính Tỉnh ủy tập trung tham mưu, thực hiện một số nhiệm vụ như sau:

1. Công tác tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy  

- Tham mưu xây dựng Kế hoạch lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng của Ban Thường vụ Tỉnh ủy năm 2021 trình Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy tháng 12/2020.

- Tham mưu báo cáo kết quả rà soát các cuộc thanh tra kinh tế - xã hội và thực hiện kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2019 trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung ương theo quy định.

- Xây dựng báo cáo kết quả thực hiện Quy định số 11-QĐi/TW ngày 18/02/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những kiến nghị, phản ánh của dân năm 2020.

- Tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng báo cáo tổng kết công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp năm 2020.

- Xây dựng báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2020 trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy báo cáo Trung ương.

- Tham mưu Dự thảo Thông báo Kết luận của Thường trực Tỉnh ủy tại Hội nghị giao ban với các cơ quan nội chính tỉnh quý IV/2020.

2. Nhiệm vụ thường xuyên

- Tiếp tục theo dõi, nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, trọng tâm là các điểm khiếu kiện phức tạp, kéo dài và các vụ việc đơn, thư phát sinh tại cơ sở; theo dõi hoạt động của các cơ quan nội chính tỉnh, đặc biệt là công tác giải quyết án tham nhũng, các vụ án nghiêm trọng, phức tạp, dư luận quan tâm; kịp thời báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh uỷ biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo.

- Xây dựng các báo cáo:

+ Báo cáo kết quả thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TU ngày 26/12/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường bảo đảm TTATXH trên địa bàn tỉnh năm 2020.

+ Báo cáo phục vụ công tác giao ban giữa đồng chí Bí thư Tỉnh ủy với các cơ quan nội chính tỉnh.

+ Báo cáo kết quả công tác tiếp dân và xử lý đơn thư năm 2020.

+ Báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2020 gửi Cụm thi đua các ban, cơ quan của Tỉnh ủy.

+ Báo cáo tình hình và kết quả hoạt động của Ban Nội chính Tỉnh ủy năm 2020 gửi Ban Nội chính Trung ương và Cụm giao ban số 1.

+ Báo cáo kiểm điểm tập thể Lãnh đạo Ban năm 2020.

+ Báo cáo công tác bảo vệ chính trị nội bộ năm 2020.

+ Các báo cáo kết quả thực hiện các quy chế và chương trình phối hợp giữa Ban Nội chính Tỉnh ủy với các cơ quan khối nội chính, các ngành tỉnh có liên quan và với các huyện ủy, thành ủy trong công tác nội chính, phòng, chống tham nhũng.

- Xây dựng Chương trình công tác năm 2021 của Ban Nội  chính Tỉnh ủy.

- Xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025.

- Rà soát các kết luận kiểm tra, thanh tra kinh tế - xã hội tháng 11/2020 theo Quy định 397-QĐi/TU ngày 09/3/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

- Tiếp tục đôn đốc các địa phương, đơn vị triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TU ngày 28/4/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

- Tham mưu giúp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy tổ chức tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những kiến nghị, phản ánh của dân theo Quy định số 11-QĐi/TW của Bộ Chính trị; duy trì thường xuyên công tác tiếp dân và xử lý đơn, thư gửi đến Tỉnh ủy và Ban Nội chính Tỉnh ủy.

- Tham mưu giúp Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh triển khai thực hiện Thông báo Kết luận số 308-KL/BCĐ ngày 09/6/2020 của Trưởng Ban chỉ đạo.

- Cử cán bộ tham gia các phiên tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân của tỉnh; tiếp tục nắm tình hình nội dung đơn của công dân do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy chỉ đạo; đôn đốc các đơn vị, địa phương giải quyết đơn, thư do Ban Nội chính chuyển đến.

- Chuẩn bị các điều kiện tổ chức kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống ngành Nội chính Đảng đảm bảo trang nghiêm, tiết kiệm, đúng quy định.

- Tiến hành kiểm điểm, đánh giá, xếp loại thi đua, khen thưởng đối với tập thể và cá nhân năm 2020. Tổng kết công tác năm 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021. Duy trì tốt công tác hành chính quản trị của cơ quan; thực hiện nghiêm công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19; thực hiện tốt chế độ thông tin báo cáo theo quy định.

Nguyễn Đỗ Quảng

Đoàn kết, phấn đấu đưa công tác nội chính Đảng đi vào chiều sâu, lập thêm thành tích mới

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Cách đây 55 năm, ngày 5/1/1966, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành T.Ư Đảng ban hành Nghị quyết số 133-NQ/TW thành lập Ban Pháp chế T.Ư, sau này là Ban Nội chính T.Ư. Với vị trí, vai trò của mình, Ban Nội chính Tỉnh ủy đã luôn khẳng định là bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, nhất là đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp. Nhóm tác giả Ban Nội chính Tỉnh ủy nhận Giải thưởng khoa học và công nghệ tỉnh lần thứ hai, năm 2020.

Cách đây 55 năm, ngày 5/1/1966, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành T.Ư Đảng ban hành Nghị quyết số 133-NQ/TW thành lập Ban Pháp chế T.Ư, sau này là Ban Nội chính T.Ư. Với vị trí, vai trò của mình, Ban Nội chính Tỉnh ủy đã luôn khẳng định là bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, nhất là đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và cải cách tư pháp.

 

Ban Nội chính Tỉnh ủy, phòng, chống tham nhũng

Nhóm tác giả Ban Nội chính Tỉnh ủy nhận Giải thưởng khoa học và công nghệ tỉnh lần thứ hai, năm 2020.

Đối với Bắc Giang, Ban Nội chính Tỉnh ủy được thành lập năm 1983, có giai đoạn được sáp nhập về văn phòng cấp ủy. Đến năm 2013, trước yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác nội chính, đẩy mạnh đấu tranh, phòng, chống tham nhũng (PCTN) và nâng cao hiệu quả cải cách tư pháp (CCTP); theo chỉ đạo của T.Ư, Ban Nội chính Tỉnh ủy được tái lập đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy, trực tiếp là Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy.

Thực tiễn xây dựng và phát triển của ngành nội chính Đảng trong 55 năm qua khẳng định công tác nội chính Đảng luôn là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ có nhiều khó khăn nhưng ngành nội chính Đảng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Ban Nội chính Tỉnh ủy ngày nay kế thừa và phát huy thành quả của các giai đoạn trước; luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, BTV Tỉnh ủy và hướng dẫn của Ban Nội chính T.Ư. Ban đã thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, từng bước nâng cao chất lượng, xây dựng cơ quan vững mạnh, đưa nhiều mặt công tác đi vào chiều sâu, nổi bật là: Chủ động tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về nội chính, PCTN và CCTP, gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, KT-XH của tỉnh; xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, quy trình công tác về lĩnh vực công tác nội chính, PCTN và CCTP bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, làm cơ sở triển khai thực hiện ở địa phương.

Ban Nội chính Tỉnh ủy, phòng, chống tham nhũng

Cán bộ Ban Nội chính Tỉnh ủy trao đổi công việc.

Giúp cấp ủy chỉ đạo, định hướng tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, đấu tranh phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Từng bước tham mưu nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nội chính, ngành, đoàn thể các cấp nắm chắc tình hình an ninh chính trị (ANCT), trật tự an toàn xã hội (TTATXH), từ đó kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền chỉ đạo giải quyết. Làm tốt công tác tiếp dân, giúp Thường trực Tỉnh ủy chỉ đạo xử lý các đơn, thư theo đúng quy định.

Đặc biệt, phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, với Thanh tra tỉnh, Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy đẩy mạnh công tác phát hiện, xử lý nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng phức tạp, đưa công tác này vào nền nếp. Cùng đó, giúp cấp ủy rà soát các cuộc thanh tra KT-XH trên địa bàn, phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý, kiến nghị nhiều biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, phòng ngừa sai phạm, tiêu cực phát sinh...

Để nâng cao chất lượng công tác, đưa hoạt động nội chính, PCTN, CCTP đi vào chiều sâu, Ban Nội chính Tỉnh ủy còn tăng cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các ngành, các huyện, TP và cơ sở về những lĩnh vực liên quan. Giúp BTV Tỉnh ủy làm tốt công tác tổng kết, sơ kết các nghị quyết, chỉ thị của T.Ư, của tỉnh về lĩnh vực công tác này. Đồng thời, chăm lo xây dựng cơ quan, đội ngũ cán bộ, tích cực đúc rút kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học, tổ chức nhiều cuộc hội thảo nhằm nâng cao hiệu quả công tác, chất lượng tham mưu, đóng góp xứng đáng vào nhiệm vụ chung.

Chặng đường 55 năm xây dựng và trưởng thành của ngành Nội chính Đảng nói chung, Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang nói riêng là rất đáng tự hào. Trong 7 năm gần đây, nhiều tập thể, cá nhân được Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Ban Nội chính T.Ư, BTV Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh và các cơ quan, ban, ngành khen thưởng. Đặc biệt, tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013- 2020, Ban vinh dự là một trong ba đơn vị trong cả nước được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. 

Những thành tích đó thể hiện sự nỗ lực, quyết tâm phấn đấu không ngừng của đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang. Đó cũng kết quả lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Thường trực, BTV Tỉnh ủy và Ban Nội Chính T.Ư; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan nội chính, ngành, đoàn thể tỉnh và cấp ủy, chính quyền, địa phương.

Nhiệm vụ thời gian tới của ngành Nội chính Đảng là hết sức nặng nề, liên quan đến việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, bảo đảm ANCT, TTATXH; mặt khác, công tác nội chính, PCTN và CCTP đòi hỏi cao hơn, quyết liệt hơn. Do vậy, Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang xác định một số nhiệm vụ trọng tâm:

Tiếp tục làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với BTV Tỉnh ủy về các chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm để các cơ quan nội chính ở địa phương hoạt động có hiệu quả.

Tăng cường phối hợp nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu, đề xuất giúp BTV Tỉnh ủy lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác nội chính, PCTN và CCTP, bảo đảm giữ vững ANCT, TTATXH, không để phát sinh "điểm nóng" trên địa bàn tỉnh.

Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác tham mưu giúp BTV Tỉnh ủy lãnh đạo về công tác PCTN; làm tốt cả về phòng ngừa và đấu tranh phát hiện xử lý. Trong đấu tranh xử lý coi trọng cả về việc xử lý vụ tham nhũng lớn và cả “tham nhũng vặt” để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác này.

Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác tham mưu xây dựng, thẩm định các đề án, báo cáo. Thường xuyên duy trì công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng công tác rà soát các cuộc thanh tra KT-XH; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan liên quan trong phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực tại địa phương.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; tăng cường phối hợp với các cấp, các ngành, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao, phát huy rõ nét vai trò là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng về công tác nội chính, PCTN và CCTP.

Để xứng đáng với truyền thống vẻ vang của ngành Nội chính Đảng, Ban Nội chính Tỉnh ủy Bắc Giang tiếp tục tăng cường xây dựng cơ quan vững mạnh về mọi mặt, đoàn kết thống nhất cao, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; bồi dưỡng, xây dựng cán bộ, đảng viên Ban Nội chính Tỉnh ủy gương mẫu, liêm chính, trách nhiệm, có bản lĩnh và chuyên môn cao để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Nguyễn Văn Luyến, Phó trưởng Ban Thường trực Ban Nội chính Tỉnh ủy

Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh tổ chức Hội nghị 6 tháng đầu năm 2020

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Ngày 04/6/2020, tại Văn phòng Tỉnh ủy, đồng chí Lê Thị Thu Hồng - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh chủ trì họp Ban Chỉ đạo để kiểm điểm, đánh giá tình hình, kết quả công tác cải cách tư pháp thời gian qua, bàn phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới. Thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan tư pháp trong tỉnh đã tổ chức phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các

     Ngày 04/6/2020, tại Văn phòng Tỉnh ủy, đồng chí Lê Thị Thu Hồng - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh chủ trì họp Ban Chỉ đạo để kiểm điểm, đánh giá tình hình, kết quả công tác cải cách tư pháp thời gian qua, bàn phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới.

     Thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương và các cơ quan tư pháp trong tỉnh đã tổ chức phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh; ban hành nhiều văn bản để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện... Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh đã ban hành Chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2021 và Chương trình trọng tâm hằng năm để tổ chức thực hiện. Qua đó, công tác cải cách tư pháp trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp tỉnh được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả; đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp được củng cố, kiện toàn; cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp cơ bản được quan tâm đầu tư. Hiệu quả công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tiếp tục được nâng lên; đã phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp. Công tác tham gia góp ý xây dựng luật, nhất là các dự luật về lĩnh vực tư pháp và tố tụng tư pháp tiếp tục được chú trọng và có chất lượng…

CCTP

(Ảnh: Đồng chí Tống Ngọc Bắc, UVBTV Tỉnh ủy, Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, Phó Trưởng Ban Thường trực BCĐ cải cách tư pháp chủ trì làm việc với các cơ quan tố tụng tỉnh)

       Phát biểu kết luận Hội nghị, đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy - Trưởng Ban Chỉ đạo ghi nhận những kết quả đạt được trong thời gian qua; nhất trí với phương hướng, nhiệm vụ Ban Nội chính Tỉnh ủy - Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo đề xuất trong thời gian tới; đồng thời, giao nhiệm vụ cho các thành viên Ban Chỉ đạo tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau: (1). Đồng chí Giám đốc Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan tư pháp cấp tỉnh xây dựng và ký kết Quy chế phối hợp với Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh trong công tác tư vấn, xây dựng pháp luật. Chỉ đạo tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động bổ trợ tư pháp, nhất là trong lĩnh vực đấu giá, công chứng, luật sư, đồng thời xử lý nghiêm các vi phạm. Đối với các vi phạm nhiều lần, cần kiên quyết thu hồi giấy phép hoạt động theo quy định của pháp luật. Khi tiến hành kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực đấu giá tài sản, mời đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh tham gia phối hợp thực hiện. Xây dựng báo cáo chuyên đề về thực trạng tình hình hoạt động đấu giá, công chứng, luật sư trên địa bàn tỉnh, tham mưu, đề xuất phương án lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và hoạt động đối với các lĩnh vực trên trình Trưởng Ban Chỉ đạo. (2). Đồng chí Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy tham mưu với Trưởng Ban Chỉ đạo tổ chức làm việc với Đảng đoàn Đoàn Luật sư tỉnh về tình hình hoạt động của đội ngũ luật sư và Đảng đoàn Đoàn Luật sư tỉnh trong thời gian qua. Rà soát, tập hợp các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, ý kiến kết luận trong lĩnh vực tư pháp, cải cách tư pháp của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy phục vụ hoạt động của Ban Chỉ đạo. Đưa nội dung tổ chức tập huấn luật cho cán bộ, công chức, chiến sỹ các cơ quan tư pháp tỉnh và tổ chức học tập kinh nghiệm một số tỉnh về công tác cải cách tư pháp vào hoạt động năm 2021 của Ban Chỉ đạo. (3). Giao Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh chủ trì tham mưu xây dựng dự thảo Kế hoạch thực hiện số hóa hồ sơ vụ án hình sự và ứng dụng công nghệ thông tin tại các phiên tòa để Ban Chỉ đạo trình Thường trực Tỉnh ủy. Chỉ đạo các đơn vị trong ngành Kiểm sát kịp thời cung cấp thông tin về sai phạm trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp cho Sở Tư pháp để làm căn cứ xử lý. Tham mưu với Ban Chỉ đạo tổ chức tập huấn chung cho cán bộ, công chức, chiến sỹ trong các cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án đối với các đạo luật trong lĩnh vực tư pháp được Quốc hội ban hành trong năm 2020 có hiệu lực nhằm thống nhất về nhận thức và áp dụng pháp luật...

Đặng Ngọc Toàn

Đồng chí Tống Ngọc Bắc giữ chức Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Chiều 02/7, tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Tỉnh ủy Bắc Giang tổ chức công bố quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác cán bộ. Tham dự có đồng chí Bùi Văn Hải - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy... Theo quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Tống Ngọc Bắc, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy thôi giữ chức Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, được phân công, điều động

Chiều 02/7, tại Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Tỉnh ủy Bắc Giang tổ chức công bố quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác cán bộ. Tham dự có đồng chí Bùi Văn Hải - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; đại diện lãnh đạo Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy...

Theo quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Tống Ngọc Bắc, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy thôi giữ chức Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, được phân công, điều động đến Ban Tổ chức Tỉnh ủy công tác và bổ nhiệm giữ chức Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy trong thời hạn 5 năm (60 tháng), từ ngày 01/7/2020. 

Theo quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Tống Ngọc Bắc kiêm giữ chức Trưởng Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ tỉnh, từ ngày 01/7/2020.

Anh Bắc nhận QĐ11

Đồng chí Bùi Văn Hải - Bí thư Tỉnh ủy tặng hoa chúc mừng đồng chí Tống Ngọc Bắc.

Thay mặt Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Bùi Văn Hải - Bí thư Tỉnh ủy đã trao quyết định cho đồng chí Tống Ngọc Bắc. 

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy chúc mừng và khẳng định đồng chí Tống Ngọc Bắc là cán bộ có kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực công tác, được Ban Thường vụ Tỉnh ủy tin tưởng giao nhiệm vụ mới. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy mong muốn tân Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy sẽ tiếp tục phát huy năng lực, trí tuệ, tinh thần trách nhiệm, nhanh chóng tiếp cận lĩnh vực mới, cùng tập thể Ban Tổ chức Tỉnh ủy giữ vững tinh thần đoàn kết, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy nhấn mạnh, trong công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, yêu cầu sự chính xác, đúng đắn, thận trọng, dân chủ và khách quan. Trước mắt, trong quá trình tổ chức đại hội đảng các cấp, công tác tổ chức cần “đi trước về sau”, giám sát chặt chẽ quá trình tổ chức thực hiện, đặc biệt là công tác nhân sự.

Anh Bắc nhận QĐ21

Đồng chí Tống Ngọc Bắc phát biểu nhận nhiệm vụ mới.

Đồng chí Tống Ngọc Bắc cảm ơn Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ mới. Với trách nhiệm được giao, đồng chí hứa sẽ phát huy hết khả năng của bản thân, tiếp tục học hỏi để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Đồng chí mong muốn trong thời gian tới, nhất là trong quá trình tổ chức đại hội đảng các cấp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện để Ban Tổ chức Tỉnh ủy hoàn thành tốt nhiệm vụ; tập thể Ban Tổ chức Tỉnh ủy phát huy tinh thần đoàn kết, cùng nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Đồng chí Tống Ngọc Bắc sinh năm 1965; trình độ chuyên môn Cử nhân Luật Hành chính Nhà nước, Cử nhân Kế toán; trình độ lý luận chính trị Cử nhân.

Trước khi đảm nhận chức vụ Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, đồng chí Tống Ngọc Bắc giữ các chức vụ: Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, Bí thư Huyện ủy Việt Yên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn…

Theo baobacgiang.com.vn

 

Ban Nội chính Tỉnh ủy kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc kê khai tài sản và kiểm soát việc kê khai tài sản

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Ngày 13/01/2017, Ban Nội chính Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 13-KH/BNCTU về việc kiểm tra, đôn đốc triển khai công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phòng, chống tham nhũng; việc thực hiện quy chế dân chủ và thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai tài sản và kiểm soát việc kê khai tài sản. Mục đích của việc kiểm tra, đôn đốc nhằm đánh giá được ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân thiếu sót, những khó khăn, vướng
Ngày 13/01/2017, Ban Nội chính Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 13-KH/BNCTU về việc kiểm tra, đôn đốc triển khai công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện phòng, chống tham nhũng; việc thực hiện quy chế dân chủ và thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai tài sản và kiểm soát việc kê khai tài sản. Mục đích của việc kiểm tra, đôn đốc nhằm đánh giá được ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân thiếu sót, những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó, tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, đôn đốc thực hiện theo đúng các quy định của Đảng và Nhà nước. Đối tượng kiểm tra, đôn đốc: Ban Nội chính Tỉnh ủy phối hợp với Thanh tra tỉnh kiểm tra, đôn đốc tại các huyện ủy: Lục Ngạn, Sơn Động, Việt Yên, Yên Thế và Thành phố Bắc Giang; Sở Giáo dục và Đào tạo, Kho bạc Nhà nước tỉnh và Ngân hàng Nhà nước tỉnh. Thời gian: mỗi đơn vị 01 ngày, bắt đầu từ 24/02/2017.

Nguyễn Thị Tâm

Hội nghị giao ban công tác nội chính và phòng,chống tham nhũng 6 tháng đầu năm 2015

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Ngày 07/7/2015, Ban Nội chính Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị giao ban công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng 6 tháng đầu năm 2015, triển khai nhiệm vụ công tác sáu tháng cuối năm 2015. Tham dự Hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy; các đồng chí trưởng, phó, chuyên viên các phòng thuộc Ban Nội chính Tỉnh ủy; các đồng chí cán bộ tham mưu, tổng hợp về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng của các huyện ủy, thành ủy và các cơ quan nội chính
Ngày 07/7/2015, Ban Nội chính Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị giao ban công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng 6 tháng đầu năm 2015, triển khai nhiệm vụ công tác sáu tháng cuối năm 2015. Tham dự Hội nghị có các đồng chí lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy; các đồng chí trưởng, phó, chuyên viên các phòng thuộc Ban Nội chính Tỉnh ủy; các đồng chí cán bộ tham mưu, tổng hợp về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng của các huyện ủy, thành ủy và các cơ quan nội chính tỉnh. Theo báo cáo, sáu tháng đầu năm 2015, các cấp ủy đảng, chính quyền trong tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng, bảo đảm an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, góp phần tổ chức thành công đại hội Đảng cấp cơ sở. Các cơ quan nội chính tổ chức, triển khai thực hiện và cơ bản hoàn thành các nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch công tác đã đề ra. Công tác bảo đảm quốc phòng, an ninh, công tác tư pháp, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, công tác điều tra, truy tố, xét xử đạt kết quả tích cực. Các cơ quan chức năng đã chủ động, tăng cường phối hợp nắm chắc tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, tham mưu giúp Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh và cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo xử lý các vụ việc phát sinh ngay từ cơ sở, không để phát sinh thành điểm nóng, điểm phức tạp về an ninh trật tự. HN Giao ban

(Quang cảnh Hội nghị giao ban)

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp; tình hình tội phạm tuy giảm, song tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản còn xảy ra nhiều; tiến độ, kết quả thi hành án dân sự chưa đạt chỉ tiêu, yêu cầu đề ra; tình hình khiếu kiện về đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng còn chiếm tỷ lệ cao; công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng của một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa được thường xuyên; việc triển khai thực hiện một số giải pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí hiệu quả chưa cao; quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chưa được chặt chẽ; công tác tự kiểm tra, giám sát, phát hiện tham nhũng trong cơ quan, đơn vị còn hạn chế. Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, nêu những khó khăn, vướng mắc trong công tác tham mưu, tổng hợp về lĩnh vực nội chính và phòng, chống tham nhũng; đặc biệt là công tác quản lý công dân xuất cảnh trái phép, công tác phối hợp trong xử lý án tham nhũng, công tác thi hành án dân sự…. Các đại biểu đã được lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy trao đổi, giải đáp những kiến nghị đề xuất, đồng thời định hướng những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tham mưu, tổng hợp để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng tại địa phương, đơn vị trong thời gian tới./.

                                                                                             Bùi Ngọc Thường

Những bất cập của pháp luật phòng, chống tham nhũng hiện hành về công khai, minh bạch trong cơ quan, tổ chức, đơn vị và phương hướng hoàn thiện

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
1. Trong quá trình thực hiện các quy định về công khai, minh bạch theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012, có một số tồn tại sau: Thứ nhất, về hình thức công khai Khoản 1 Điều 12 Luật PCTN quy định 7 hình thức công khai, bao gồm: (1) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (2) Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (3) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ
1. Trong quá trình thực hiện các quy định về công khai, minh bạch theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007 và 2012, có một số tồn tại sau:
    Thứ nhất, về hình thức công khai
    Khoản 1 Điều 12 Luật PCTN quy định 7 hình thức công khai, bao gồm: (1) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (2) Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (3) Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; (4) Phát hành ấn phẩm; (5) Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; (6) Đưa lên trang thông tin điện tử; (7) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
    Tuy nhiên, một trong số những hình thức công khai nêu trên cần phải có quy định cụ thể hơn nữa để tránh cách làm tùy tiện tại cơ quan, đơn vị. Cụ thể, hình thức công khai tại cuộc họp rất dễ mang tính hình thức, chịu nhiều rủi ro, bởi người nghe là những người chưa biết được thông tin được công khai, trong khi người chịu trách nhiệm công khai không công bố hết thông tin thì cũng khó có cơ sở phát hiện ra để quy trách nhiệm. Để dự tính trường hợp này, pháp luật quy định cơ quan, tổ chức phải lựa chọn ít nhất 01 hình thức khác trong số 06 hình thức còn lại để công khai. Thông thường, việc lựa chọn hình thức thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan cũng thường được lựa chọn bởi đối tượng công khai hẹp, nội dung công khai trong phạm vi văn bản được thông báo, có thể bớt các nội dung không cần thiết công khai... Kết quả là, mặc dù tiến hành công khai nhưng người ngoài, người không liên quan cụ thể đến nội dung công khai khó nắm bắt được kết quả chính xác.
    Ngoài ra, chưa kể việc quy định về công khai trên trang thông tin điện tử. Theo Điều 20 Nghị định số 72/2013/NĐCP ngày 15-7-2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng quy định có 05 loại trang thông tin điện tử, bao gồm: Báo điện tử dưới hình thức trang thông tin điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp, trang thông tin điện tử nội bộ, trang thông tin điện tử cá nhân, trang thông tin điện tử ứng dụng chuyên ngành. Như vậy, việc công khai trên trang thông tin điện tử cũng cần phải có quy định cụ thể hơn. Hiện nay, một số văn bản pháp luật khác cũng đã có quy định cụ thể đối với hình thức công khai này (Luật thanh tra, Luật doanh nghiệp...).
    Theo thống kê không chính thức (thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra trong nội bộ Bộ Nội vụ), các đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ thường lựa chọn các hình thức công khai tại cuộc họp, trang thông tin điện tử. Một số trường hợp liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo được công khai đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
    Thứ hai, về nội dung công khai
    - Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản
    Điều 13 Luật PCTN quy định việc công khai trong mua sắm công và xây dựng cơ bản. Đối với các trường hợp phải đấu thầu thì công khai kế hoạch đấu thầu, mời sơ tuyển và kết quả sơ tuyển, mời thầu; danh mục nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế, danh sách ngắn nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế, kết quả lựa chọn nhà thầu; thông tin về cá nhân, tổ chức thuộc chủ dự án, bên mời thầu, nhà thầu, cơ quan quản lý hoặc đối tượng khác vi phạm pháp luật về đấu thầu; thông tin về nhà thầu bị cấm tham gia và thông tin về xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu; văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, hệ thống thông tin dữ liệu về đấu thầu; báo cáo tổng kết công tác đấu thầu trên phạm vi toàn quốc của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; báo cáo tổng kết công tác đấu thầu của bộ, ngành, địa phương và cơ sở; thẩm quyền, thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu.
    Luật đấu thầu và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26-62014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu đã quy định nội dung công khai trong đấu thầu; quy định đầy đủ các hình thức lựa chọn nhà thầu và công khai trong đấu thầu trong mua sắm hàng hóa, kể cả đối với các gói mua sắm nhỏ; thời hạn tổ chức đấu thầu được rút ngắn, số lượng nhà thầu tham gia chào hàng không bị khống chế mức tối thiểu (ít nhất 03 nhà cung cấp như trước đây). Việc này giúp đẩy nhanh các gói mua sắm, đặc biệt là mua sắm hàng hóa đặc thù.
    Tuy nhiên, việc công khai báo cáo tổng kết công tác đấu thầu không được Luật đấu thầu điều chỉnh. Việc này, hiểu theo góc độ quản lý thì báo cáo tổng kết công tác đấu thầu là báo cáo của cơ quan nhà nước, báo cáo hành chính thông thường và không điều chỉnh giữa chủ đầu tư (cơ quan nhà nước) với nhà thầu (cơ quan, tổ chức khác) với tính chất bình đẳng, điều chỉnh theo hợp đồng. Do đó, không cần thiết quy định tại Luật đấu thầu. Tuy nhiên, cùng một nội dung nhưng nội dung công khai lại quy định tại hai hệ thống văn bản luật khác nhau dẫn đến việc khó áp dụng thống nhất, thực tế triển khai còn vướng mắc, xung đột giữa pháp luật chuyên ngành và pháp luật về PCTN. Mặt khác, do chưa có quy định cụ thể về việc lập báo cáo tổng kết công tác đấu thầu nên nhiều cơ quan, đơn vị còn nhầm lẫn với báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu, nên đã nhầm lẫn việc công khai báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu. Trên thực tế, báo cáo kết quả thẩm định đấu thầu có tính chất chuyên môn, chi tiết, cụ thể hơn so với báo cáo tổng kết công tác đấu thầu.
    - Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng
    Theo quy định của Luật đầu tư công, việc lấy ý kiến thẩm định của cơ quan chuyên môn về xây dựng đối với dự án đầu tư xây dựng là bắt buộc. Ngoài ra, theo Luật xây dựng thì còn phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư có liên quan về nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng. Hình thức lấy ý kiến dưới dạng gửi hồ sơ, tài liệu, tổ chức hội thảo, phát phiếu điều tra, phỏng vấn, trưng bày hoặc giới thiệu phương án quy hoạch trên phương tiện thông tin đại chúng. Sau khi phê duyệt, quy hoạch xây dựng phải được công bố thông tin trên trang thông tin điện tử của cơ quan quản lý nhà nước về quy hoạch xây dựng. Ngoài ra, người có thẩm quyền còn có thể lựa chọn các hình thức tổ chức hội nghị công bố quy hoạch xây dựng; trưng bày công khai, thường xuyên, liên tục các panô, bản vẽ, mô hình tại nơi công cộng, tại cơ quan quản lý quy hoạch xây dựng các cấp, UBND cấp xã đối với quy hoạch chi tiết xây dựng; in ấn, phát hành rộng rãi bản đồ quy hoạch xây dựng, quy định về quản lý quy hoạch xây dựng được phê duyệt.
    Việc quy định về đối tượng phải công khai là phù hợp với Điều 14 Luật PCTN sửa đổi năm 2012. Theo đó, dự án quy hoạch đầu tư xây dựng phải được lấy ý kiến của nhân dân địa phương nơi quy hoạch; dự án đầu tư xây dựng từ ngân sách địa phương phải được Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định; dự án đầu tư xây dựng sau khi được quyết định, phê duyệt phải được công khai để nhân dân giám sát (báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi, báo cáo đánh giá tác động kinh tế - xã hội; các mục tiêu, dự kiến kết quả, các nhóm hoạt động chính và đối tượng thụ hưởng trong quá trình lập dự án).
    Tuy nhiên, việc quy định cùng một nội dung ở nhiều văn bản khác nhau, trong khi đó nếu áp dụng việc công khai tại cơ quan, đơn vị phê duyệt dự án như tại Luật PCTN để tiến hành công khai trong trường hợp này là không hợp lý, mà cần công khai tại địa phương, nơi thực hiện quy hoạch (ngoài trụ sở cơ quan, đơn vị phê duyệt) để nhân dân dễ giám sát.
    - Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của Nhà nước, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
    Điều 18 Luật PCTN quy định doanh nghiệp nhà nước phải công khai, minh bạch về vốn và tài sản của Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, vốn và tài sản của doanh nghiệp đầu tư vào công ty con, công ty liên kết; các khoản đầu tư ngoài ngành nghề kinh doanh chính; vốn vay ưu đãi, báo cáo tài chính và báo cáo kiểm toán, việc lập và sử dụng quỹ của doanh nghiệp; việc bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý; họ, tên, nhiệm vụ, lương và các khoản thu nhập khác của người trong Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc, Kiểm soát viên, Kế toán trưởng.
    Đến nay, việc công khai này nhìn chung là chưa đầy đủ so với quy định tại Điều 108, 109 Luật doanh nghiệp. Ngoài ra, việc Luật doanh nghiệp quy định rõ hình thức công bố trên trang thông tin điện tử đã thể hiện hạn chế của Luật PCTN trong việc điều chỉnh các quy định của Luật chuyên ngành.
    - Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
    Điều 27 Luật PCTN và khoản 13 Điều 1 Luật PCTN sửa đổi năm 2012 quy định việc công khai hoạt động về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong đó, các văn bản gồm quyết định thanh tra, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra; quyết định giải quyết khiếu nại; kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo cần được công khai.
    Luật thanh tra cũng đã quy định cụ thể các hình thức công khai, thời gian, địa điểm, thành phần công khai gồm công bố tại cuộc họp với thành phần bao gồm người ra quyết định thanh tra, Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc tổ chức họp báo; thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra; cung cấp theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký kết luận thanh tra, người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm thực hiện việc họp công khai kết luận thanh tra như trên và lựa chọn ít nhất một trong các hình thức công khai khác (thông báo lên phương tiện thông tin đại chúng, đưa trang thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở) và cung cấp khi được yêu cầu.
    Tuy nhiên, hiện nay, việc thiếu quy định cụ thể về nội dung công khai (công khai toàn văn các văn bản: Quyết định thanh tra, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra; quyết định giải quyết khiếu nại; kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo hay chỉ công khai một phần, mặc dù có văn bản có thể không có nội dung thuộc bí mật nhà nước như kết luận thanh tra, kết luận nội dung tố cáo...) đã dẫn đến cách hiểu, áp dụng tùy nghi về nội dung công khai của các cơ quan, đơn vị. Việc này đã đặt ra câu hỏi, có nên chăng phải quy định bắt buộc việc công khai toàn văn các văn bản, trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước?
    - Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ
    Điều 30 Luật PCTN quy định cụ thể các nội dung phải công khai trong công tác tổ chức - cán bộ, bao gồm: Việc tuyển dụng (công khai về số lượng, tiêu chuẩn, hình thức và kết quả tuyển dụng); việc quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, chuyển ngạch, luân chuyển, điều động, khen thưởng, cho thôi việc, cho thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm, kỷ luật, hưu trí đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác. Phạm vi, hình thức công khai bắt buộc là trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc. Ngoài ra, phải áp dụng 01 trong 06 hình thức công khai còn lại tại khoản 1 Điều 12 Luật PCTN.
    Nghị định số 24/2010/NĐCP ngày 15-3-2010 đã quy định bắt buộc 03 hình thức công khai thông báo tuyển dụng (công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử của cơ quan và niêm yết công khai tại trụ sở làm việc), 01 hình thức công khai danh sách người đủ điều kiện dự tuyển (niêm yết công khai tại trụ sở làm việc) và 03 hình thức công khai kết quả tuyển dụng (niêm yết công khai tại trụ sở làm việc và trên trang thông tin điện tử của cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức; gửi thông báo kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển bằng văn bản tới người dự tuyển theo địa chỉ mà người dự tuyển đã đăng ký). Như vậy, với mỗi giai đoạn tuyển dụng khác nhau, việc công khai được quy định khác nhau và phù hợp với thực tế khách quan.
    Theo quy định của Luật cán bộ, công chức, kết quả phân loại đánh giá cán bộ, công chức được thông báo đến cán bộ, công chức được đánh giá. Việc đánh giá này có ảnh hưởng lớn đến việc khen thưởng, cho thôi việc, thôi giữ chức vụ, miễn nhiệm, bãi nhiệm cán bộ, công chức nhưng nội dung công khai chỉ là thông báo đến người được đánh giá. Do đó, trong quá trình thực hiện còn có vướng mắc, bất bình đẳng giữa cán bộ, công chức với viên chức.
    Đối với công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, việc công khai tuy không được quy định ở các văn bản hướng dẫn cụ thể mà chỉ quy định ở Luật PCTN. Tuy nhiên, thông qua các trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại từ việc quy hoạch và lựa chọn nguồn quy hoạch (hoặc giới thiệu của cán bộ, công chức); lấy ý kiến cấp ủy nơi cư trú; họp lấy phiếu tín nhiệm; đề xuất của thủ trưởng trực tiếp, họp lấy ý kiến tập thể lãnh đạo, cấp ủy về công tác bổ nhiệm, có thể thấy được rằng, công tác bổ nhiệm đã được công khai đến toàn thể cơ quan, đơn vị từ cấp sử dụng cán bộ, công chức đến cấp quản lý cán bộ, công chức ở cả cơ quan đảng, chính quyền và công khai tại cấp ủy địa phương nơi cư trú là phù hợp với Luật PCTN. Vấn đề có thể nảy sinh, và dễ thấy là có thể có sự thiếu minh bạch trong công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đó là việc bỏ phiếu tín nhiệm và ý kiến của tập thể lãnh đạo. Tuy vậy, biên bản họp tập thể lãnh đạo lại không phải là đối tượng phải công khai. Kết quả bổ nhiệm chỉ được biết tại thời điểm thông báo.
    Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Thông tư số 11/2012/TT-BNV ngày 17-122012 của Bộ Nội vụ, hồ sơ công chức được quản lý, sử dụng và bảo quản theo chế độ tài liệu mật do nhà nước quy định, chỉ những người được cơ quan hoặc người có thẩm quyền quản lý hồ sơ công chức đồng ý bằng văn bản mới được nghiên cứu, sử dụng và khai thác hồ sơ của công chức. Do đó, khi tiến hành bổ nhiệm, công chức chỉ được nghe thông báo về điều kiện, tiêu chuẩn của người dự kiến bổ nhiệm mà không có điều kiện kiểm tra, giám sát.
    Về công tác đào tạo, pháp luật không quy định cụ thể các trường hợp phải công khai, hình thức, nội dung công khai trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức (Luật giáo dục, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05-3-2010 hướng dẫn về đào tạo, bồi dưỡng và Thông tư số 03/2011/TT-BNV). Do đó, tại các cơ quan, đơn vị thực hiện việc công khai theo Luật PCTN. Quá trình triển khai còn có vướng mắc, đó là. Đối với nội dung cử đi đào tạo không nhất thiết phải công khai trên phương tiện thông tin đại chúng; thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, cá nhân; phát hành ấn phẩm hay đưa lên trang thông tin điện tử bởi một phần ảnh hưởng đến quyền riêng tư của người đi học, nói rộng ra, có thể vi phạm nhân quyền. Việc niêm yết tại trụ sở và công bố tại cuộc họp cơ quan, đơn vị là phù hợp. Hơn nữa, vấn đề đặt ra là thời gian tiến hành công khai, có cần thiết công khai ngay hay tập hợp, công khai trong quý, 06 tháng, năm đào tạo. Khi đó, để bảo đảm việc áp dụng thống nhất, cần thiết phải có quy định cụ thể về hình thức, nội dung, thời gian, thời hạn công khai công tác đào tạo, bồi dưỡng.
    2. Qua phân tích những tồn tại nêu trên, xin đề xuất một số kiến nghị:
    Một là, cần rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về công khai, minh bạch.
    Việc rà soát, hệ thống hóa thực hiện theo hướng loại bỏ các quy định trùng lặp tại nhiều văn bản, đồng thời quy định cụ thể các trường hợp cần công khai, hình thức, nội dung, thời gian công khai đối với từng hoạt động của cơ quan nhà nước tại Luật PCTN để bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất, tránh quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác.
    Hai là, quy định rõ trách nhiệm công khai, việc công khai các quy định về danh mục bí mật nhà nước trong cơ quan, đơn vị.
    Hiện tại, mỗi bộ, ngành, địa phương lại có các danh mục các tài liệu mật riêng. Điều 4 Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17-6-2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật PCTN đã đặt ra vấn đề về bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch trong việc ban hành danh mục bí mật nhà nước của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Theo đó, sử dụng phương pháp loại trừ để quy định các danh mục bí mật nhà nước không bao gồm những nội dung bắt buộc phải công khai quy định từ Điều 13-26, 26a, 26b, 26c, 26d, 27-30 và Điều 46a Luật PCTN. Tuy nhiên, như trên đã nêu, có những nội dung quy định tại các luật khác cũng cần thiết phải công khai thì Nghị định này nêu như vậy là vẫn chưa loại trừ đầy đủ. Ví dụ như quy định về công khai nhu cầu tuyển dụng.
    Việc công khai danh mục bí mật nhà nước vừa tạo điều kiện để người dân thực hiện tốt hơn vai trò giám sát việc thực hiện công khai của các cơ quan nhà nước, vừa là cơ sở pháp lý để ngăn chặn tình trạng lạm dụng hay lách quy định để từ chối quyền chính đáng trong thực hiện quyền giám sát của công dân.
    Ba là, bổ sung quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc chậm công khai, tổ chức công khai không đầy đủ, không tổ chức công khai về hoạt động của cơ quan, đơn vị.
    Hiện tại, pháp luật không quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong việc không công khai đầy đủ về hình thức, nội dung, thời gian của các hoạt động cần công khai. Do đó, khi kiểm tra, phát hiện việc công khai không đầy đủ, không công khai thường chỉ dừng ở mức nhắc nhở. Cuối năm, người đứng đầu cơ quan cấp trên đánh giá người đứng đầu cơ quan cấp dưới ở mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng năng lực hạn chế hoặc không hoàn thành nhiệm vụ. Chính vì chưa có chế tài đầy đủ, không xử lý được các hành vi vi phạm nên việc tuân thủ Luật PCTN về công khai, minh bạch là chưa nghiêm.
    Bốn là, bỏ nội dung quy định về quyền được cung cấp thông tin trong Luật PCTN.
    Luật tiếp cận thông tin đã được ban hành ngày 06-42016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2018 có quy định cụ thể về quyền được tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, để bảo đảm không quy định lại, không xung đột với Luật tiếp cận thông tin, cần thiết bãi bỏ nội dung này tại Luật PCTN.
    Năm là, xây dựng hệ thống xử lý thông tin đầu - cuối về công việc của cơ quan, đơn vị và nội dung công khai.
    Một trong những vấn đề khiến cho việc công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, đơn vị triển khai còn chậm, chưa đồng bộ, thống nhất đó là cơ quan có thẩm quyền kiểm tra việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan cấp dưới chỉ phát hiện thông qua thanh tra, kiểm tra. Để kịp thời phát hiện các trường hợp chậm công khai, chưa công khai, cần xây dựng hệ thống xử lý thông tin, trước mắt theo hướng: Nhập liệu các công việc quan trọng của cơ quan, đơn vị (nếu công việc này không được thực hiện thì cơ quan, đơn vị không hoạt động được, ví dụ như về vốn, ngân sách, giao thực hiện nhiệm vụ thường xuyên). Hệ thống sẽ tự đánh giá kết quả công khai đối với công việc này ở cuối kỳ (trong thời gian 06 tháng hoặc 01 năm).
    Sáu là, thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức của cán bộ, công chức về công khai, minh bạch.
    Mỗi cán bộ, công chức phải coi việc thực hiện công khai, minh bạch trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm của mình vừa là cơ hội để tự hoàn thiện năng lực bản thân, nâng cao kỹ năng giải quyết công việc khi được sự giám sát từ người khác.
    Đồng thời, cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân; có chính sách truyền thông đúng đắn, hiệu quả về công khai, minh bạch và tác dụng đối với công tác PCTN.

(noichinh.vn)

Đài Tiếng nói Việt Nam: Coi trọng tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
6 tháng đầu năm 2015, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát huy vai trò là cầu nối giữa người dân, công chúng với Đảng, Nhà nước, tích cực, chủ động thông tin kết quả phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và những kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của quốc tế đến khán, thính giả qua sóng phát thanh - truyền hình với thời lượng cao, thường xuyên, liên tục, hiệu quả. Toàn cảnh một buổi làm việc của Đài Tiếng nói Việt Nam Cùng với đó, lãnh đạo Đài coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến
6 tháng đầu năm 2015, Đài Tiếng nói Việt Nam đã phát huy vai trò là cầu nối giữa người dân, công chúng với Đảng, Nhà nước, tích cực, chủ động thông tin kết quả phòng, chống tham nhũng của Việt Nam và những kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của quốc tế đến khán, thính giả qua sóng phát thanh - truyền hình với thời lượng cao, thường xuyên, liên tục, hiệu quả.
Toàn cảnh một buổi làm việc của Đài Tiếng nói Việt Nam
Toàn cảnh một buổi làm việc của Đài Tiếng nói Việt Nam
    Cùng với đó, lãnh đạo Đài coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là những văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng đến cán bộ, viên chức của Đài bằng nhiều hình thức như: mở lớp tập huấn; báo cáo chuyên đề về pháp luật trong các buổi sinh hoạt đơn vị, chi bộ và đoàn thể.
    Ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc, tổ chức thực hiện quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan như: Quy chế làm việc; Quy chế chi tiêu nội bộ; Quy chế dân chủ... Việc thực hiện Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12-5-2009 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt.
    Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Đài Tiếng nói Việt Nam được triển khai thực hiện theo đúng quy định, giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan. Đã tiếp nhận và xử lý gần 14.500 đơn thư, hầu hết các đơn thư được phân loại và chuyển đến các Hệ và các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền để trả lời và giải quyết đúng thời hạn; tiếp và tư vấn trực tiếp cho gần 300 lượt công dân; tư vấn qua điện thoại cho khoảng 750 thính giả.
(Theo noichinh.vn)
;

Một số điểm mới trong Bộ luật dân sự sửa đổi năm 2015

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Bộ luật Dân sự sửa đổi (BLDS năm 2015) đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII ngày 24-11-2015, gồm 27 chương, 689 điều. Bài viết này giới thiệu một số quy định mới, có tính đột phá về tư duy pháp lý như sau: 1. Bộ luật dân sự năm 2015 thể hiện được đầy đủ vai trò là luật chung của hệ thống luật tư Điểm nhấn trọng tâm trong sửa đổi BLDS năm 2015 là sự thay đổi nhận thức trong tư duy lập pháp với việc mở rộng các loại nguồn
Bộ luật Dân sự sửa đổi (BLDS năm 2015) đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII ngày 24-11-2015, gồm 27 chương, 689 điều. Bài viết này giới thiệu một số quy định mới, có tính đột phá về tư duy pháp lý như sau: 1. Bộ luật dân sự năm 2015 thể hiện được đầy đủ vai trò là luật chung của hệ thống luật tư Điểm nhấn trọng tâm trong sửa đổi BLDS năm 2015 là sự thay đổi nhận thức trong tư duy lập pháp với việc mở rộng các loại nguồn theo thứ tự ưu tiên áp dụng từ Điều 4 đến Điều 6 BLDS năm 2015: Áp dụng BLDS; áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật. Đặc biệt, lần đầu tiên ghi nhận quy định tại khoản 2 Điều 6 BLDS năm 2015: “Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ và lẽ công bằng”. Án lệ là những bản án chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, có tính chuẩn mực và có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; hành vi và nội dung tương tự cùng tính chất với nhau thì được áp dụng như nhau; không thể tùy tiện mỗi nơi xử một khác. Xét xử theo lẽ công bằng đòi hỏi thẩm phán phải có vốn kiến thức uyên thâm trên cơ sở nghiên cứu các nguồn pháp luật khác luật thành văn như tục lệ, án lệ, lý luận, nguyên tắc để xét xử trên cơ sở lý trí và niềm tin nội tâm mà không có bất cứ một điều luật thành văn nào quy định. 2. Xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự Bộ luật quy định: “Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Đây là một quy định mới mang tính chất đột phá, góp phần bảo vệ một cách kịp thời và triệt để hơn quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực dân sự. Quy định này đánh dấu một bước đi cụ thể trong việc triển khai thi hành khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, góp phần thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước ta, bảo đảm hội nhập quốc tế. 3. Đề cao quyền nhân thân của cá nhân Điều 37 BLDS năm 2015 quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”. Vấn đề xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính trong BLDS năm 2015 được xem là một bước tiến cởi mở, bắt kịp xu thế toàn cầu trong hoạt động lập pháp của Việt Nam.

                                                          Lê Khánh Hưng

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT trong tình hình mới

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Sáng 16/7/2015, tại Hà Nội, Bộ Chính trị đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 46 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự (ANTT) trong tình hình mới. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị,
Sáng 16/7/2015, tại Hà Nội, Bộ Chính trị đã triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc để quán triệt, triển khai thực hiện Chỉ thị số 46 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự (ANTT) trong tình hình mới.
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, Bí thư Đảng ủy trực thuộc Trung ương; các đồng chí Trưởng ban Đảng Trung ương, Bí thư Ban cán sự đảng, đảng đoàn trực thuộc Trung ương; các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương. Hội nghị đã nghe đồng chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư quán triệt các nội dung cơ bản Chỉ thị của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm ANTT trong tình hình mới; đồng chí Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Bộ Công an báo cáo tình hình ANTT trong thời gian gần đây; lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương, Thành ủy Hà Nội, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh báo cáo bổ sung làm rõ những nội dung, công việc cụ thể cần làm để thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị. Lãnh đạo Ban Đối ngoại Trung ương thông báo nhanh kết quả chuyến thăm Hoa Kỳ của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Phát biểu kết luận Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích, làm sáng tỏ thêm một số diễn biến cơ bản của tình hình trong nước và thế giới; khẳng định đây là một Hội nghị rất quan trọng và cần thiết, được tổ chức do đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới. Vấn đề mấu chốt là phải quán triệt sâu sắc và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt những nhiệm vụ, giải pháp mà Chỉ thị của Bộ Chính trị đã đề ra. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các Bộ, ban, ngành, địa phương, trước hết là người đứng đầu  trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chỉ thị, tạo chuyển biến thực sự về nhận thức và hành động trong công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, chuẩn bị và tiến hành thành công đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XII của Đảng.
 (Theo TTXVN)

Chỉ thị của Chủ tịch UBND tỉnh về chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra và PCTN

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Để chấn chỉnh, khắc phục hạn chế về công tác thanh tra và phòng, chống tham nhũng, ngày 17/12/2018, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 11/CT-UBND về chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra và PCTN. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu các Sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện, thành phố thực hiện tốt các nội dung: 1. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Thông báo kết luận số 282-TB/TU ngày 15/12/2017 của Thường trực Tỉnh ủy tại Hội nghị đánh giá công tác kiểm

Để chấn chỉnh, khắc phục hạn chế về công tác thanh tra và phòng, chống tham nhũng, ngày 17/12/2018, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Chỉ thị số 11/CT-UBND về chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra và PCTN. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu các Sở, cơ quan thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện, thành phố thực hiện tốt các nội dung:

1. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc Thông báo kết luận số 282-TB/TU ngày 15/12/2017 của Thường trực Tỉnh ủy tại Hội nghị đánh giá công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, công tác thanh tra Nhà nước trên địa bàn tỉnh; Thông báo Kết luận số 68/TB-UBND ngày 23/3/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh về kết luận tại buổi làm việc với ngành thanh tra về công tác thanh tra năm 2018; Công văn  số 3788/UBND-NC ngày 01/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra. Thực hiện nghiêm túc Quy định số 397-QĐ/TU ngày 09/3/2018 của Tỉnh ủy về chế độ báo cáo các cuộc thanh tra, kiểm tra và các quy định khác về chế độ báo cáo trong công tác thanh tra.

2. Chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong công tác thanh tra; nâng cao chất lượng các cuộc thanh tra; chấp hành nghiêm quy định về trình tự, thủ tục tiến hành cuộc thanh tra; làm tốt công tác phối hợp với cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc thực hiện các kết luận thanh tra; xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân có sai phạm; nghiêm cấm hành chính hóa các hành vi vi phạm pháp luật hình sự phát hiện qua thanh tra. Tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp trong việc xử lý các vi phạm khi có dấu hiệu tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật hình sự.

3. Tổ chức quán triệt và tuyên truyền phổ biến sâu rộng đến cán bộ, công chức, nhân dân và triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018 để nâng cao nhận thức của người đứng đầu, của đội ngũ cán bộ công chức và của người dân nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

4. Tiến hành rà soát, phân loại, xác định các nội dung, lĩnh vực thuộc quyền quản lý của địa phương, đơn vị để lựa chọn các vấn đề trọng tâm, trọng điểm, nhạy cảm, dễ nảy sinh tiêu cực đưa vào chương trình, kế hoạch để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo; đề ra biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng.

5. Tập trung thực hiện tốt các giải pháp phòng ngừa tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghiêm quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị. Tăng cường chỉ đạo việc theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trực thuộc trong việc triển khai thực hiện; đảm bảo chấp hành nghiêm các quy định về trình tự, thủ tục công khai, minh bạch trong hoạt động theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng....

Chỉ thị 11.UBND tinh

                                                                                                           Hoàng Oanh

Kết quả thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 09/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Sau hơn một năm triển khai thực hiện Chi thị số 09-CT/TU ngày 09/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự; các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã kịp thời quán triệt Chỉ thị, đồng thời chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở, MTTQ và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền, quán triệt đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân về công tác thi hành án dân sự (THADS). Các cấp

Sau hơn một năm triển khai thực hiện Chi thị số 09-CT/TU ngày 09/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự; các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã kịp thời quán triệt Chỉ thị, đồng thời chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở, MTTQ và các đoàn thể tổ chức tuyên truyền, quán triệt đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân về công tác thi hành án dân sự (THADS). Các cấp ủy, chính quyền quan tâm, tập trung hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự trên địa bàn và đạt nhiều kết quả:

Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện được quan tâm kiện toàn bổ sung kịp thời thành viên; hằng năm đã chủ động xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch đề ra, hoạt động có nhiều tích cực, hiệu quả hơn trước, đã chỉ đạo giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khó, tồn đọng kéo dài. Thường trực cấp tỉnh, huyện định kỳ hàng quý tổ chức giao ban với lãnh đạo các cơ quan nội chính; trong đó kiểm điểm, đánh giá công tác THADS trên địa bàn, cho ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác THADS. UBND tỉnh và UBND một số huyện, thành phố đã quan tâm, hỗ trợ kinh phí hoạt động, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn công tác thi hành án của địa phương. Cục THADS và Chi cục THADS các huyện, thành phố bám sát sự chỉ đạo của cấp trên, chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền trong công tác THADS trên địa bàn; tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân. Kết quả công tác THADS có nhiều chuyển biến tích cực, kể từ khi có Chỉ thị 09-CT/TU, ngành thi hành án dân sự tỉnh từ một đơn vị xếp hạng yếu trong toàn ngành, đến nay đã trở thành đơn vị có nhiều thành tích, được Tổng Cục THADS khen.

Thi hanh an

(ảnh hoạt động công tác thi hành án dân sự của Cục Thi hành án dân sự)

Kết quả thi hành án dân sự về việc và tiền: Tổng số trong toàn ngành phải thi hành 13.543 việc, với số tiền phải thu là 1.132,9 tỷ đồng (tăng 345 việc, với số tiền phải thu tăng 29,9 tỷ đồng so với cùng kỳ). Qua phân loại có 10.826 việc với 681,7 tỷ đồng có điều kiện thi hành, đã giải quyết 8.908 việc với 208,3 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 82,28% về việc và 30,57% về tiền trên tổng số việc và tiền có điều kiện thi hành (tăng 609 việc với 521 triệu đồng so với cùng kì- trước khi ban hành Chỉ thị). Kết quả thu nộp các khoản thu cho NSNN: Tổng số việc phải giải quyết trong toàn ngành là 9.278 việc với 80,7 tỷ đồng; đã giải quyết được 6.625 việc với 25,1 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 72% về việc và 32% về tiền. Kết quả thi hành các vụ việc liên quan đến tín dụng Ngân hàng: Từ tháng 4/2017 đến nay, toàn ngành đã thụ lý 239 việc với 574,9 tỷ đồng; số việc có điều kiện là 190 việc với 286, 2 tỷ đồng (chiếm tỷ lệ 79,5% về việc và 49,79% về tiền). Kết quả, đã giải quyết xong 93 việc với 73,8 tỷ đồng trên tổng số việc và tiền có điều kiện thi hành (đạt tỷ lệ 49% về việc và 26% về tiền). Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh và huyện đã ban hành 333 quyết định cưỡng chế thi hành án; qua công tác vận động, tuyên truyền, thuyết phục đã có 106 trường hợp đương sự tự nguyện thi hành xong các nghĩa vụ thi hành án trước thời gian tổ chức cưỡng chế theo kế hoạch; phải tổ chức cưỡng chế 227 trường hợp (trong đó đã tổ chức cưỡng chế thành công 213 trường hợp, 03 trường hợp cưỡng chế không thành công do đương sự chống đối quyết liệt).

                                                                                                          Hoàng Oanh

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí góp phần hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2015

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Ngày 17/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 365/QĐ-TTg ban hành Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP) năm 2015. Việc ban hành Chương trình này tạo bước đột phá quan trọng trong chống lãng phí và thực hành tiết kiệm, góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế, ổn định đời sống, tiêu dùng của nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, việc THTK, CLP được thực hiện trên tất cả các lĩnh
  Ngày 17/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 365/QĐ-TTg ban hành Chương trình tổng thể của Chính phủ về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP) năm 2015. Việc ban hành Chương trình này tạo bước đột phá quan trọng trong chống lãng phí và thực hành tiết kiệm, góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế, ổn định đời sống, tiêu dùng của nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, việc THTK, CLP được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực theo quy định của Luật THTK, CLP, trong đó tập trung vào các lĩnh vực sau: Quản lý, sử dụng kinh phí chi thường xuyên của ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng đất đai, trụ sở làm việc, nhà công vụ, tài sản công; quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước trong các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 100% vốn Nhà nước; thành lập các quỹ tài chính có nguồn từ ngân sách nhà nước; quản lý, sử dụng điện năng; quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động. Chong lang phi

(Ảnh minh họa/Nguồn: Internet)

Bộ Tài chính có trách nhiệm thực hiện kiểm tra, thanh tra việc triển khai, thực hiện Chương trình tổng thể của Chính phủ về THTK, CLP và kiểm tra, thanh tra việc xây dựng, thực hiện Chương trình THTK, CLP của một số bộ, ngành, địa phương. Với những nội dung cơ bản như trên, Chương trình tổng thể của Chính phủ về THTK, CLP năm 2015 sẽ là cơ sở quan trọng để các Bộ, ngành, địa phương triển khai xây dựng và thực hiện Chương trình THTK, CLP của Bộ, ngành, địa phương, nhằm thực hiện có hiệu quả Luật THTK, CLP.  

Tải QĐ 365/QĐ-TTg tại đây.                                                                                                         Nguyễn Thị Tâm

"Không để lọt vào Trung ương khoá tới người có tham vọng quyền lực"

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Chiều 7/5, Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra sau 4 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ, trách nhiệm. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và có bài phát biểu quan trọng bế mạc Hội nghị. Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị. Ảnh: Trí Dũng–TTXVN “Thưa các đồng chí Trung ương, Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị, Sau 4 ngày làm việc

Chiều 7/5, Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã hoàn thành toàn bộ chương trình đề ra sau 4 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ, trách nhiệm. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và có bài phát biểu quan trọng bế mạc Hội nghị.

Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu:
 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị. Ảnh: Trí Dũng–TTXVN Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu bế mạc Hội nghị. Ảnh: Trí Dũng–TTXVN
“Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị,
Sau 4 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, dân chủ và trách nhiệm, Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra. Trung ương đã xem xét, quyết định Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; số lượng và việc phân bổ đại biểu dự Đại hội XII; đồng thời cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng khác. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí cao thông qua Nghị quyết Hội nghị. Sau đây, tôi xin thay mặt Bộ Chính trị phát biểu khái quát lại những kết quả chủ yếu của Hội nghị và nhấn mạnh thêm một số vấn đề để thống nhất lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện.
Một là, về phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII: Nhận thức sâu sắc ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội lần thứ XII, với tinh thần coi cán bộ và công tác cán bộ là "cái gốc của mọi công việc", "nguyên nhân của mọi nguyên nhân", "then chốt của then chốt", Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận kỹ lưỡng, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, thẳng thắn và thống nhất cao với Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị. Cụ thể là:
Về yêu cầu xây dựng Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Trung ương nhấn mạnh: Những năm sắp tới, dự báo tình hình thế giới và trong nước sẽ tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta hơn bao giờ hết, phải thật sự vững vàng, giữ được bản chất cách mạng và khoa học, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII phải thật sự là một tập thể vững mạnh, đoàn kết thống nhất chặt chẽ, bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tầm nhìn chiến lược, có trí tuệ, tư duy đổi mới, sáng tạo, ý chí chiến đấu, kỷ luật nghiêm minh; có tính đảng cao, biết lắng nghe, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, quy tụ được sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân; có uy tín, năng lực lãnh đạo đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
Trung ương nhất trí việc xác định tiêu chuẩn Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XII phải căn cứ vào tiêu chuẩn chung của cán bộ được quy định trong các Nghị quyết của Đảng; đặc biệt là phải:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của dân tộc; có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng, nói đi đôi với làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động, làm việc có hiệu quả.
- Có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm; có tinh thần trách nhiệm cao, tận tụy với công việc; dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của Đảng, của đất nước. Bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi; có ý thức giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, gương mẫu chấp hành sự phân công và nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình; công minh, công bằng trong đánh giá, sử dụng cán bộ.
- Có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy chiến lược để tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới; qua thực tiễn thể hiện rõ là người có năng lực, sáng tạo, làm việc có hiệu quả, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; đoàn kết, quy tụ, phát huy được đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực, địa bàn được phân công, lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao; có ý thức, trách nhiệm và khả năng tham gia thảo luận, đóng góp vào các quyết định chung của Ban Chấp hành Trung ương; đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ.
Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải là những đồng chí thật tiêu biểu của Ban Chấp hành Trung ương về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo quản lý, có tầm nhìn và tư duy chiến lược, có khả năng phân tích, dự báo, tổng hợp, đề xuất những vấn đề mới một cách đúng đắn; có trình độ hiểu biết sâu sắc về lý luận chính trị, biết phát hiện và sử dụng người có đức có tài; đã tham gia Ban Chấp hành Trung ương, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, còn trong độ tuổi theo quy định và đủ sức khỏe để đảm đương nhiệm vụ.
Kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành Trung ương những người có một trong các khuyết điểm, như: Bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng, có biểu hiện cơ hội chính trị, nói và làm trái Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc của Đảng; tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, phê bình; để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị; không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức; kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc; bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính; có vấn đề về lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay.
Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, Ban Chấp hành Trung ương cần có số lượng và cơ cấu hợp lý để bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, có tính kế thừa và phát triển. Tăng số lượng Ủy viên Trung ương ở các vị trí, địa bàn chiến lược, lĩnh vực công tác quan trọng; chú ý tăng thêm tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cần có 3 độ tuổi (dưới 50; 50 - 60 và từ 61 tuổi trở lên). Trường hợp đặc biệt nào cần phải cơ cấu vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ngoài độ tuổi theo quy định thì Bộ Chính trị cân nhắc, trình Ban Chấp hành Trung ương xem xét, quyết định việc đề cử với Đại hội Đảng.
Về phương pháp và quy trình giới thiệu, lựa chọn nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Trung ương nhất trí cao với báo cáo của Bộ Chính trị, trong đó có khâu giới thiệu của các đồng chí Ủy viên Trung ương khóa XI, giới thiệu của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương. Việc giới thiệu nhân sự, nói chung phải trên cơ sở quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016 - 2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Tiểu ban Nhân sự Đại hội và Bộ Chính trị cần chỉ đạo chặt chẽ để việc giới thiệu, lựa chọn nhân sự bảo đảm đúng quy định của Điều lệ Đảng, các quy định, quy chế của Trung ương, của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa tập trung thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện đúng những chủ trương, biện pháp mà Trung ương đã quyết định. Các trường hợp có đơn, thư tố cáo, khiếu nại hoặc phải xem xét về chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,... phải được Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan kiểm tra xem xét, kết luận trước khi Bộ Chính trị xem xét, quyết định. Việc tổng hợp ý kiến của các đồng chí Ủy viên Trung ương, của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị,... phải được thực hiện theo một quy trình chặt chẽ, khách quan, khoa học. Đặc biệt, các đồng chí Ủy viên Trung ương phải gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm rất cao, thật sự công tâm, khách quan, trong sáng, chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức, quy chế, quy định của Đảng, đặt sự nghiệp chung của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Kiên quyết chống các biểu hiện cơ hội, tham vọng quyền lực, vận động cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm...; cảnh giác với những âm mưu của các thế lực thù địch phá hoại, gây rối nội bộ ta.
Hai là, về việc phân bổ đại biểu dự Đại hội XII của Đảng: Bằng kinh nghiệm thực tiễn tổ chức đại hội đảng ở các cấp, các đồng chí Ủy viên Trung ương đã đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng. Trung ương nhất trí cao với những nguyên tắc và các căn cứ phân bổ đại biểu và dự kiến số lượng phân bổ đại biểu đối với các đảng bộ trực thuộc Trung ương và giao cho Bộ Chính trị quyết định cụ thể việc phân bổ đại biểu. Các đảng bộ trực thuộc cần thực hiện nghiêm túc các quyết định của Trung ương, lựa chọn được các đại biểu thực sự tiêu biểu, đại diện xứng đáng cho đảng bộ của mình đi dự Đại hội toàn quốc của Đảng.
Ba là, về mô hình tổ chức chính quyền địa phương: Trung ương khẳng định, đổi mới, kiện toàn mô hình tổ chức chính quyền địa phương là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, do đây là vấn đề mới, khó, phức tạp, ý kiến còn khác nhau cho nên phải tiến hành một cách thận trọng, từng bước vững chắc và đặt trong tổng thể việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Tờ trình của Bộ Chính trị, Trung ương đã thảo luận, phân tích kỹ những mặt ưu điểm, nhược điểm, tính khả thi và sự phù hợp của mỗi phương án và đã quyết định chọn phương án "Tất cả các đơn vị hành chính quy định tại khoản 1, Điều 110 Hiến pháp năm 2013 đều tổ chức cấp chính quyền địa phương (gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân)". Ưu điểm nổi bật của phương án này là: Bảo đảm sự phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và không làm xáo trộn mô hình tổ chức chính quyền địa phương hiện nay; thể hiện sự thống nhất giữa việc phân chia địa giới hành chính với việc thiết lập tổ chức chính quyền địa phương cùng với các tổ chức Đảng, đoàn thể chính trị, xã hội…; đáp ứng được yêu cầu phải có sự giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp; bảo đảm thực hiện được nguyên tắc cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương phải chịu sự giám sát của cơ quan do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra; việc tổ chức cấp chính quyền gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở đơn vị hành chính cấp cơ sở thể hiện sự gần dân, sát dân của chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Việc phân biệt chính quyền địa phương ở địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt sẽ được thể hiện trong các quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ở từng loại đơn vị hành chính cho phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau giữa đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Theo đó, chính quyền nông thôn cần được chú trọng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý toàn diện theo lãnh thổ ở cả 3 cấp; chính quyền đô thị cần được tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn quản lý theo ngành, lĩnh vực với sự phân cấp, ủy quyền phù hợp giữa cấp thành phố với các thị xã, quận, phường,...
Trung ương nhấn mạnh, trên cơ sở thống nhất về mô hình chính quyền địa phương như trên, cần tập trung tinh giản bộ máy, biên chế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị; đổi mới, quy định thật rõ việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền của cấp trên đối với cấp dưới. Xác định rõ các nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện để thực hiện phân quyền, phân cấp, ủy quyền, tạo điều kiện để chính quyền các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đồng thời bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của chính quyền cấp trên đối với chính quyền cấp dưới.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân phải gắn với đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng, nâng cao chất lượng cán bộ và đại biểu Hội đồng nhân dân, tạo mọi điều kiện để Hội đồng nhân dân hoạt động có thực quyền, nhất là trong việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát có hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bốn là, về Dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành: Ban Chấp hành Trung ương đánh giá cao sự chuẩn bị nghiêm túc, công phu của Ban Cán sự đảng Chính phủ, sự tham gia có trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội và các ban, bộ, ngành, địa phương có liên quan; đồng thời ghi nhận, cảm ơn những ý kiến đóng góp tâm huyết của các đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, các nhà khoa học.
Sau khi thảo luận, xem xét các vấn đề nêu trong Tờ trình và Báo cáo của Ban cán sự đảng Chính phủ, Trung ương tiếp tục khẳng định sự cần thiết, đúng đắn của chủ trương đầu tư xây dựng cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long Thành đã được Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 12-2011) đề ra, coi đây là Dự án đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trung ương yêu cầu, trong quá trình nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện Dự án, cần lưu ý xác định rõ những tiêu chí, điều kiện tiền đề để trở thành một cảng trung chuyển hàng không quốc tế trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các sân bay trung chuyển quốc tế trong khu vực Đông Nam Á. Tính toán kỹ hiệu quả đầu tư, lộ trình, phân kỳ đầu tư sao cho khả thi, phù hợp với tình hình phát triển của ngành hàng không Việt Nam và khả năng huy động nguồn lực cho đầu tư, phát triển.
Ngay trong giai đoạn xây dựng Báo cáo đầu tư trình Quốc hội đã phải cố gắng cung cấp một cách tương đối chuẩn xác tình hình, số liệu để chứng minh có sức thuyết phục về các phương án, đề xuất nêu trong Tờ trình như: Sự cần thiết phải lựa chọn địa điểm Long Thành; sự phù hợp của Dự án với các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; vấn đề sử dụng đất, phương án giải phóng mặt bằng và tái định cư; việc lựa chọn công nghệ, kỹ thuật và mô hình quản lý, vận hành, khai thác sau khi Dự án hoàn thành; hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả đầu tư của Dự án; tổng mức đầu tư và cơ cấu nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vấn đề huy động các nguồn vốn đầu tư của xã hội, khả năng hoàn vốn; biện pháp khắc phục tình trạng lâu nay các dự án đầu tư thường vượt quá cao so với dự toán ban đầu… Nghiêm túc lắng nghe và tiếp thu các ý kiến góp ý xác đáng và giải trình rõ những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, nhất là ý kiến phản biện của các tổ chức, cá nhân có trình độ chuyên môn về các lĩnh vực có liên quan đến Dự án. Bảo đảm tính công khai, minh bạch; làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và sự đồng thuận cao trong xã hội.
Thưa các đồng chí,
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ đề ra cho năm 2015 với tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao nhất. Từ đầu năm đến nay, kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có những chuyển biến tích cực; môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển được giữ vững; quốc phòng - an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại và hoạt động hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, vị thế của đất nước được nâng cao; các địa phương đã và đang chủ động, tích cực chuẩn bị và tiến hành tổ chức đại hội đảng bộ các cấp.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức vẫn còn nhiều, nhất là trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực đang có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Vì vậy, để có thể hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2015, tiến tới Đại hội XII của Đảng, đề nghị mỗi đồng c hí Trung ương hãy nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thật tốt Nghị quyết đại hội XI, các nghị quyết của Trung ương. Đặc biệt là chủ động, tích cực tham gia chuẩ n bị thật tốt nhân sự Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt kh óa XII ; bầu chọn đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng, cơ cấu đại biểu tham dự Đại hội theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương lần này. Với tinh thần đó, tôi xin tuyên bố bế mạc Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Chúc các đồng chí mạnh khỏe, hoàn thành tốt trọng trách trước Đảng, trước nhân dân và đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn”.
TTXVN

CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC THÁNG 8 NĂM 2018

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
1- Nhiệm vụ trọng tâm trong tháng - Tiếp tục theo dõi, nắm chắc tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, kịp thời tham mưu giúp Thường trực Tỉnh uỷ lãnh đạo, chỉ đạo. - Triển khai giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 25/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với ban thường vụ huyện ủy: Lục Nam,

1- Nhiệm vụ trọng tâm trong tháng

- Tiếp tục theo dõi, nắm chắc tình hình an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, kịp thời tham mưu giúp Thường trực Tỉnh uỷ lãnh đạo, chỉ đạo.

- Triển khai giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 25/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với ban thường vụ huyện ủy: Lục Nam, Việt Yên, Sơn Động và Sở Y tế, Nội vụ; sau giám sát tổng hợp, xây dựng Báo cáo kết quả giám sát.

 - Tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy triển khai giám sát công tác quản lý, sử dụng nguồn kinh phí sự nghiệp giáo dục và các nguồn thu ở các cơ sở giáo dục thuộc các huyện: Lục Nam, Yên Dũng, thành phố Bắc Giang và sở Giáo dục - Đào tạo.

- Báo cáo tổng kết 03 năm thực hiện Kế hoạch số 04-KH/BNCTU ngày 19/4/2016 về thi đua chuyên đề "Tham mưu cho cấp uỷ lãnh đạo, chỉ đạo xử lý có hiệu quả các vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm về nội chính, tham nhũng".

- Tham gia tọa đàm về công tác nội chính và phòng, chống tham nhũng của Cụm số 1 theo Kế hoạch số 114-KH/BNCTW ngày 04/6/2018 của Ban Nội chính Trung ương.

- Theo dõi, rà soát các kết luận thanh tra kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, kịp thời tham mưu, đề xuất các vấn đề nổi lên với Thường trực Tỉnh ủy.

- Duy trì thường xuyên công tác tiếp công dân và xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến Tỉnh uỷ và Ban Nội chính theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng; cử cán bộ tham gia các phiên tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân của tỉnh.

- Đóng góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XVIII của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh,

- Báo cáo tình hình thụ lý, giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng trên địa bàn tỉnh theo Thông báo kết luận số 253-CV/VPTU ngày 28/9/2017 của Thường trực Tỉnh ủy.

- Xây dựng Báo cáo tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

2- Các cuộc họp trong tháng

- Ngày 03/8/2018: Họp cơ quan;

- Ngày 15/8/2018: Giao ban Lãnh đạo./.

VP

Điểm báo tuần số 108 (Từ ngày 02-05 đến ngày 08-05) về nội chính và phòng, chống tham nhũng

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
CÔNG TÁC NỘI CHÍNH Báo Điện tử Đảng Cộng sản, Điện tử Chính phủ, Nhân dân, Lao động, Đại đoàn kết, Thanh tra, Tiền phong, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Thanh tra, Pháp luật Việt Nam, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, TTXVN, Đài TNVN, Đài THVN, VnExpress (từ 04 đến 08-5) phản ánh nội dung Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Trung ương đã xem xét, quyết định về: Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; số lượng và việc
      CÔNG TÁC NỘI CHÍNH 
      Báo Điện tử Đảng Cộng sản, Điện tử Chính phủ, Nhân dân, Lao động, Đại đoàn kết, Thanh tra, Tiền phong, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Thanh tra, Pháp luật Việt Nam, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, TTXVN, Đài TNVN, Đài THVN, VnExpress (từ 04 đến 08-5) phản ánh nội dung Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI. Trung ương đã xem xét, quyết định về: Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; số lượng và việc phân bổ đại biểu dự Đại hội XII của Đảng; đồng thời cho ý kiến về một số vấn đề quan trọng khác. Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí cao thông qua Nghị quyết Hội nghị. Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Để có thể hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2015, tiến tới Đại hội XII của Đảng, mỗi đồng chí Trung ương hãy nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân và đất nước, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thật tốt Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết của Trung ương. Đặc biệt là chủ động, tích cực tham gia chuẩn bị thật tốt nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt khoá XII; bầu chọn đủ số lượng, bảo đảm về chất lượng, cơ cấu đại biểu tham dự Đại hội theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương lần này.
Khai mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI
Khai mạc Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI
      Báo Người lao động, Công an TP. Hồ Chí Minh, Vietnamnet, Vnexpress, Đất Việt, TTXVN (05-05) cho biết, Viện kiểm sát nhân dân tối cao gửi tới các đại biểu Quốc hội báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Chính phủ và các bộ, ngành về dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) trong đó có việc bắt buộc ghi âm, ghi hình khi hỏi cung. Ngoài ý nghĩa tăng cường sự minh bạch, tăng khả năng kiểm soát đối với hoạt động hỏi cung, còn là một trong những căn cứ quan trọng để bảo vệ cán bộ tư pháp đã tiến hành tố tụng đúng pháp luật. Đây là yêu cầu của các đại biểu Quốc hội, của nhân dân thời gian qua. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị quy định vấn đề này trong bộ luật.
    Báo Điện tử Đảng Cộng sản, Điện tử Chính phủ, Nhân dân, Lao động, Đại đoàn kết, Thanh tra, Tiền phong, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, Thanh tra, Pháp luật Việt Nam, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, TTXVN, Đài TNVN, Đài THVN, VnExpress (07-05) dẫn thông tin từ Văn phòng Quốc hội, Phiên họp thứ 38 của Ủy ban Thường vụ Quốc với nhiều nội dung quan trọng chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 13. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến vào báo cáo bổ sung của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2014; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước những tháng đầu năm 2015... Tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về các Tờ trình, Đề án của Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các nội dung: Phê chuẩn bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn các đơn vị trong bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; phê chuẩn danh sách Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập và giải thể Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực; phê chuẩn bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự các cấp; quy định về Kiểm tra viên Viện kiểm sát nhân dân…
    CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
    Báo Thanh tra, Pháp luật và Xã hội (05-05) phản ánh vụ Nhà văn hóa huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên được đầu tư hơn 9 tỷ đồng đã hoàn thành từ năm 2009 để "bỏ hoang" trong một thời gian dài vì lún nứt nghiêm trọng, không đảm bảo chất lượng. Công trình không được nghiệm thu nhưng chủ đầu tư là UBND huyện Yên Mỹ vẫn thanh toán hết tiền cho đơn vị thi công, tư vấn giám sát và các đơn vị liên quan. Thanh tra tỉnh Hưng Yên yêu cầu chủ đầu tư, UBND huyện Yên Mỹ thực hiện việc kiểm điểm trách nhiệm của Ban Quản lý Dự án, giám sát thi công và những cá nhân có liên quan và có biện pháp xử lý nghiêm khắc với tập thể, cá nhân vi phạm theo quy định của pháp luật.
    Báo Công an nhân dân, Pháp luật TP. Hồ Chí Minh, Tuổi trẻ, Thanh niên, Người lao động, Dân trí, Đài TNVN, TTXVN (07-05) cho biết, Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị truy tố bị can Phạm Văn Tuấn, nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam về hành vi “lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Theo kết luận điều tra, trong quá trình tổ chức thi hành án, Công ty TNHH dịch vụ du lịch Tân Đông An phải trả cho Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) chi nhánh Quảng Nam số tiền gần 100 tỷ đồng. Tuấn đã nhiều lần tiếp xúc, gặp gỡ và đòi Giám đốc Công ty Tân Đông An chi tiền hàng tháng để kéo dài thời gian thi hành án và phải đưa số tiền 1 tỷ đồng để tác động với BIDV Quảng Nam tạo điều kiện cho việc trả nợ.
    Báo Nhân dân, Lao động, Đời sống và pháp luật, Công lý, Hà Nội mới, An ninh Thủ đô, Tuổi trẻ, TTXVN, Đài TNVN (08-05) đưa tin, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP.Hồ Chí Minh sẽ xét xử phúc thẩm vụ “cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” do Vũ Quốc Hảo, nguyên Tổng Giám đốc Công ty cho thuê tài chính 2 (Công ty ALC II) cùng 7 đồng phạm. Trong phiên xử lần này, Hội đồng xét xử đã tuyên giảm án cho 2 bị cáo: Phạm Xuân Nghị, nguyên Trưởng phòng cho thuê giảm từ 8 năm xuống còn 6 năm tù; Phạm Thị Thúy Bồng, nguyên Kế toán trưởng, Phó Trưởng phòng phụ trách phòng kế toán ALC II giảm từ 4 năm xuống còn 3 năm tù. Vũ Quốc Hảo và 5 bị cáo còn lại bị tuyên y án sơ thẩm.
    Báo Tiền phong, Người lao động,  Dân trí, Tuổi trẻ, Đài TNVN (08-05) thông tin từ buổi họp báo do UBND tỉnh Gia Lai tổ chức cho biết kết quả thanh tra tài chính của 4 đơn vị gồm: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai đã chi sai gần 11,2 tỷ đồng; Sở Giáo dục & Đào tạo chi sai hơn 1 tỷ đồng; Sở Lao động, Thương binh & Xã hội chi sai hơn 1,8 tỷ đồng; Đài phát thanh và truyền hình tỉnh Gia Lai bị phát hiện chi sai hơn 780 triệu đồng. Các đơn vị này đã mua hóa đơn, quyết toán khống, chi sai quy định tổng số tiền hơn 15,6 tỷ đồng.
    Báo Nhân dân, Công an nhân dân, Thanh tra, Tuổi trẻ, Công lý, Dân trí, Người lao động, Vnexpress, TTXVNB, Đài THVN, Đài TNVN (08-05) cho biết, Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã tống đạt quyết định khởi tố bị can, thực hiện lệnh khám xét, bắt tạm giam đối với ông Hoàng Thế Trung, nguyên Giám đốc Ban Quản lý dự án nước sông Đà do "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng" trong vụ 10 lần vỡ đường nước sông Đà và ông Trần Cao Bằng, Giám đốc Công ty cổ phần ống sợi thuỷ tinh Vinaconex, về hành vi “Vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”. Trước đó, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự “Vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng công ty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex) do đường ống cấp nước sông Đà bị vỡ liên tục trong 3 năm qua.
    Báo Quảng Ninh (08-05) đưa tin, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “Tham ô tài sản” tại Công ty than Hạ Long.  Theo kết quả điều tra, Hoàng Văn Hải, Phạm Văn Sớm, Nguyễn Thị Thủy là công nhân thuộc Công ty than Hạ Long đã thông đồng với các đối tượng bên ngoài đưa 03 xe ô tô vào Công ty lấy đi hơn 52 tấn than, đem bán lấy 62.239.613 đồng chia nhau. Hành vi này đã bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Công an phường Mông Dương bắt quả tang. Hội đồng xét xử đã xử phạt bị cáo Hoàng Văn Hải 42 tháng tù, Phạm Văn Sớm 42 tháng tù, Nguyễn Thị Thủy 36 tháng tù,
    TIN QUỐC TẾ
    Báo Tiền phong (05-05) dẫn nguồn tin từ Báo Hong Kong South China Morning Post, Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Trung Quốc cho biết vừa hoàn tất vòng một đợt thanh tra 26 doanh nghiệp nhà nước, điều tra gần 20 quan chức về tội tham nhũng, tập trung vào lĩnh vực năng lượng, công nghệ, viễn thông và thép. Bốn quan chức điều hành cấp cao của ngành dầu khí và 7 người thuộc ngành điện lực bị điều tra tham nhũng, bao gồm lãnh đạo của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc và lãnh đạo Tập đoàn Điện lực miền Nam.
    Báo Sài Gòn giải phóng (06-05) đưa tin, Cảnh sát Mỹ cho biết lãnh đạo đầy quyền lực của phe đa số trong Thượng viện bang New York, ông Dean Skelos và con trai đã bị bắt giữ sau khi Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) mở rộng một cuộc điều tra tham nhũng. Đây là trường hợp mới nhất trong hàng loạt vụ bê bối và tham nhũng khiến nhiều quan chức cấp cao tại New York mất ghế. Đầu năm nay, Chủ tịch Hạ viện bang New York Sheldon Silver cũng đã buộc phải từ chức sau khi bị cáo buộc phạm tội tham nhũng.
    Thông tin đáng chú ý trong tuần:
    - Hội nghị lần thứ 11, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI.
    - Chuẩn bị nhiều nội dung quan trọng cho Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa 13.
    - Truy tố bị can Phạm Văn Tuấn, nguyên Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam.
    - Bắt tạm giam 2 Giám đốc trong vụ vỡ đường ống nước sông Đà - Hà Nội.
BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG

Kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng năm 2019

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Căn cứ Nghị quyết Trung ương 3 khóa X và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết số 109-NQ/TU ngày 04/7/2016 của Tỉnh ủy về đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngày 28/11/2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 60-KH/TU lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham

Căn cứ Nghị quyết Trung ương 3 khóa X và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Nghị quyết số 109-NQ/TU ngày 04/7/2016 của Tỉnh ủy về đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngày 28/11/2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 60-KH/TU lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng năm 2019.

Nhằm nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng theo các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng. Qua đó, góp phần giữ vững an ninh, trật tự, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức kỷ luật, kỷ cương, liêm chính; củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, chính quyền.

Kế hoạch yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị cần nhận thức sâu sắc và tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thường xuyên đôn đốc, kiểm tra nhằm tạo sự chuyển biến tích cực trong công tác phòng, chống tham nhũng. Thực hiện phòng, chống tham nhũng phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong tổ chức thực hiện phải chú trọng cả phòng và chống với phương châm chủ động phòng ngừa, tích cực phát hiện, đấu tranh, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực.

Các huyện ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy chỉ đạo xây dựng kế hoạch lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở đơn vị, địa phương; đồng thời chỉ đạo các đơn vị trực thuộc xây dựng kế hoạch phòng, chống tham nhũng năm 2019 và hoàn thành trong tháng 01/2019. Đảng đoàn HĐND tỉnh, Ban cán sự đảng UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, bổ sung, sửa đổi các cơ chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gắn sát với thực tế…

(KH 60 của Tỉnh ủy

                                                                                                           Hoàng Oanh

Một số kết quả công tác điều tra, truy tố, xét xử án hình sự trên địa bàn tỉnh quý I năm 2016

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Quý I/2016, cơ quan điều tra các cấp điều tra khám phá 96 vụ, 112 đối tượng phạm tội về trật tự xã hội; khởi tố mới 288 vụ, 597 bị can; kết luận điều tra đề nghị viện kiểm sát nhân dân truy tố 254 vụ, 602 bị can. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát 571 tin báo, tố giác tội phạm, đã giải quyết 385 tin, đạt 67,4%, còn 186 tin đang xem xét xử lý. Kiểm sát điều tra 537 vụ án hình sự với 1.049 bị can. Viện kiểm sát hai cấp
Quý I/2016, cơ quan điều tra các cấp điều tra khám phá 96 vụ, 112 đối tượng phạm tội về trật tự xã hội; khởi tố mới 288 vụ, 597 bị can; kết luận điều tra đề nghị viện kiểm sát nhân dân truy tố 254 vụ, 602 bị can. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp đã kiểm sát 571 tin báo, tố giác tội phạm, đã giải quyết 385 tin, đạt 67,4%, còn 186 tin đang xem xét xử lý. Kiểm sát điều tra 537 vụ án hình sự với 1.049 bị can. Viện kiểm sát hai cấp (tỉnh, huyện) phải xử lý 234 vụ/520 bị can; đã xử lý 187 vụ/398 bị can (trong đó: quyết định truy tố 187 vụ/386 bị can; đình chỉ 12 bị can), hiện còn 47 vụ/122 bị can. Đã phối hợp với cơ quan điều tra, tòa án giải quyết được 08 vụ án trọng điểm, 06 vụ án theo thủ tục rút gọn, tổ chức 03 phiên tòa hình sự để rút kinh nghiệm trong toàn ngành và đưa 11 vụ án đi xét xử lưu động. Tòa án nhân dân hai cấp (tỉnh, huyện) đã thụ lý 282 vụ án hình sự sơ thẩm với 653 bị cáo; đã xét xử 125 vụ/233 bị cáo, trả hồ sơ điều tra bổ sung 11 vụ/29 bị cáo, hiện còn 146 vụ/391 bị cáo. Hình phạt áp dụng: Tử hình 01 bị cáo, chung thân 01 bị cáo, 05 bị cáo tù từ 15 - 20 năm, 08 bị cáo tù từ 07 - 15 năm, 18 bị cáo tù từ 03 - 07 năm, 134 bị cáo tù từ 03 năm trở xuống, 65 bị cáo phạt tù cho hưởng án treo.

                                                                                        Hoàng Oanh

UBND tỉnh chỉ đạo tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Đọc bài viết
Thực hiện Công văn số 704/TTg-V.I ngày 18/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết KNTC; ngày 27/5/2015, Chủ tịch UBND tỉnh đã có Công văn số 1385/UBND-TCD yêu cầu Giám đốc Sở, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc UBND tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố thực hiện một số nội dung sau: 1. Triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị, Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của
Thực hiện Công văn số 704/TTg-V.I ngày 18/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết KNTC; ngày 27/5/2015, Chủ tịch UBND tỉnh đã có Công văn số 1385/UBND-TCD yêu cầu Giám đốc Sở, Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc UBND tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố thực hiện một số nội dung sau: 1. Triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị của Bộ Chính trị, Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; Công văn số 3505/UBND-TCD ngày 05/12/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh; kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo chuyển biến hơn nữa trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. 2. Tăng cường chỉ đạo các cơ quan chức năng nắm chắc tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn, có kế hoạch tổ chức tiếp công dân, giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền ngay từ khi mới phát sinh (nhất là những vụ việc liên quan đến đất đai, chính sách xã hội, chuyển đổi mô hình chợ, giải phóng mặt bằng, ô nhiễm môi trường, liên quan đến nhân sự Đại hội Đảng các cấp...). 3. Tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo dài; tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để các quyết định, kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật và những vụ việc Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành chức năng của Trung ương đã có ý kiến chỉ đạo giải quyết./.

                                                                                             Giáp Văn Thịnh

 

Thư viện ảnh Thư viện ảnh

BẮC GIANG Thời tiết

 

 

Thống kê truy cập Thống kê truy cập

Đang truy cập: 8,101
Tổng số trong ngày: 538
Tổng số trong tuần: 1,288
Tổng số trong tháng: 15,138
Tổng số trong năm: 57,187
Tổng số truy cập: 505,354